Chào mừng bạn đến với website hội đồng họ Hồ 

Gia phả, phả hệ

GIA PHẢ HỌ TỘC VIỆT NAM

Lời giới thiệu

            HỒ HƯNG DẬT Nguyên tổ họ Hồ ở Việt Nam là Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật, thuộc dân Bách Việt, người huyện Vũ Lâm, tỉnh Chiết Giang (ven biển và phía Nam sông Dương Tử), đỗ Trạng Nguyên thời vua Hán Ẩn Đế (947-950). Ông thuộc dòng dõi con cháu Ngu (Nghiêu) Thuấn (2255-2208 TCN). Con Ngu Yên được Chu Vũ Vương (1066-1063 TCN) phong cho đất Trần, gọi là Hồ Công (tước Công) nên con cháu lấy chữ Hồ làm Họ. Giai đoạn nầy ở Trung Nguyên loạn to, nên ông có thể dịch cư sang Châu Diển và làm thái thú, cùng vơí Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) làm thái thú Châu Hoan. Ông sang làm thái thú Châu Diễn mấy năm thì loạn 12 sứ quân, ông đến hương Bàu Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) lập nghiệp. Ông là nguyên tổ một họ Hồ duy nhất ở Việt Nam. Trên một ngàn năm phát triển, con cháu ông ở khắp 3 miền của đất nước. (Trích: Một số tư liệu về phả hệ họ HỒ, tập 1- Hồ Bá Hiền) Từ đời thứ II đến đời thứ XI không chấp nối thế thứ được. Tuy nhiên trong lịch sử còn ghi lại một số nhân vật sau: . Thời Lý Công Uẩn, có người họ Hồ lấy công chúa Lý Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Lý Nguyệt Đoan. . Dưới thời Trần Phế Đế (1377-1388), năm 1380 có Hồ Truật khởi nghĩa (ĐVSKTT. Tập II trang 194). Dưới thời Trần Nghệ Tông, 1372, vua phong Hồ Long làm Tri Châu Hóa Châu và Hồ Tông Thốc giữ chức Hàn Lâm Viện Học Sĩ (ĐVSKTT. Tập II trang 181) . Ngọc Phả chùa Bảo Tháp (xếp hạng Di tích VHLS 28/9/1990) tại làng Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, ghi: ‘Vị Thiền Tăng họ Hồ tên la Bà Lam, đắc đạo, hóa thân ngày 14/4 âm lịch” Ngọc Phả nầy do Thượng Thư Đông Các Đại Học Sĩ Nguyễn Bính viết vào vào đời Lê Ý Tông (1735-1739). Đời XII, ngài Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại (Hà Đông, Hà Trung,Thanh Hoá). Cháu 4 đời của Hồ Liêm là Hồ Quí Ly lập nên triều đại nhà Hồ (1400 - 1407). Hồ Liêm là thái thuỷ tổ họ Hồ Thanh Hoá. Một nhánh họ Hồ khác sinh sống tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là ngài Hồ Kha, đời thứ XIII. Ngài Hồ Kha có hai con, con trưởng là Hồ Hồng, con thứ là Hồ Cao. Hồ Hồng là thuỷ tổ họ Hồ Quỳnh Đôi. Hồ Cao là thuỷ tổ họ Hồ Tam Công làng Qui Trạch, Yên Thành tỉnh Nghệ An. Hồ Hồng có hai trai: Hồ Hân và Hồ Hữu Nhân sinh sống tại Quỳnh Đôi. Sau đó Hồ Hồng tham gia quân đội chỉ huy hơn 2000 lính vào trấn thủ Tân Bình - Thuận Hoá. Tại Tân Bình ông còn ngôi lăng mộ nguy nga. Tại Thuận Hoá, ông có vợ và con cháu sinh sống đông đúc tại 2 phủ Tân Bình và Thuận Hoá. Hồ Hồng là thuỷ tổ Họ Hồ An Cựu, An Truyền huyện Phú Vang – Thừa Thiên và là thủy tổ họ Hồ làng Cẩm Sa, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hồ Hân và bà chánh thất Hoàng Thị Xạ sinh hai con trai. Con trưởng là Hồ Ước Lể, con thứ là Hồ An; với bà kế thất sinh Hồ Hưởng Phúc (sinh sống tại làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu) tại làng Thượng Yên. Con cháu của ngài Hồ Hân rất phát triển nổi bậc là Hồ Phi Phúc sinh 3 anh em nhà Tây Sơn:(lấy theo họ Mẹ) Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương; 3 trạng nguyên : Hồ Sĩ Đống, Hồ Phi Tích, Hồ sĩ Tôn; tể tướng Hồ Sĩ Dương; các tiến sĩ Hồ Ước Lễ, Hồ Sĩ Tân, Hồ Doãn Hài, Hồ Trọng Kỳ, Hồ Sĩ Tuấn….

Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi

 

       Theo sử cũ, ông tổ đầu tiên của họ Hồ ở nước ta là trạng nguyên Hồ Hưng Dật sống vào thế kỷ thứ 10. Tộc phả bị thất truyền 11 đời (khoảng 300 năm). Đến đời 12 (ông Hồ Liêm) dời ra Thanh Hóa và đời 13 (ông Hồ Kha) ở Nghệ An, tộc phả mới liên tục.

Năm 1314, ông Hồ Kha từ Quỳ Trạch (Yên Thành) về Quỳnh Đôi xem địa thế và giao cho con cả là Hồ Hồng ở lại cùng 2 người họ Nguyễn, họ Hoàng khai cơ lập nên làng Quỳnh Đôi còn mình trở lại Quỳ Trạch. Sau này ông Hồ Hồng cùng với 2 ông thủy tổ họ Nguyễn, họ Hoàng được dân suy tôn là Thành Hoàng, rước vào thờ ở đền làng.

     Ông Hồ Kha và ông Hồ Hồng được coi là thủy tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, thờ ở nhà thờ lớn họ Hồ. Thế thứ (còn gọi là đời, vai) trong họ được tính từ ông Hồ Hân (con ông Hồ Hồng) trở đi, nghĩa là: ông Hồ Hân là đời thứ nhất. Nếu tính từ đời ông Hồ Hưng Dật thì phải cộng thêm 14 đời nữa.

     Ông tổ trung chi II là Hồ Khắc Kiệm (đời 3) con Hồ Ước Lễ, cháu Hồ Hân. Cháu đời 8 là Hồ Sĩ Anh (còn gọi là Hồ Thế Anh) sinh năm 1618, mất năm 1684, thi hội trúng tam trường, làm tri huyện Hà Hoa (vùng Kỳ Anh, Hà Tĩnh) tước Diễn Trạch hầu.

     Hồ Thế Anh sinh Hồ Thế Viêm (đậu Sinh đồ), Hồ Phi Cơ (thi hội đậu tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (đậu Hoàng giáp, tước quận công), Hồ Phi Đoan.

     Hồ Thế Viêm sinh Hồ Phi Khang (đời 10). Phi Khang sinh 5 con trai: Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống.

     Hồ Phi Phúc sinh 3 con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ (đời 12)

Nguyễn Nhạc (1743-1793) sinh các con trong đó có Nguyễn Bảo, con Bảo là Nguyễn Đâu.

Nguyễn Huệ (1753-1792) sinh các con trai trong đó có Quang Thiệu (Khang công tiết chế); Quang Bàn (Tuyên công, đốc trấn Thanh Hóa); Quang Toản (vua Cảnh Thịnh 1783-1802).

Hồ Phi Cơ (đời 9) sinh Hồ Phi Gia (thi hội đậu tam trường). Hồ Phi Gia sinh Hồ Phi Diễn (đậu sinh đồ) và Hồ Phi Lãng (cũng đậu sinh đồ). Hồ Phi Diễn (1703-1786) sinh Hồ Xuân Hương (đời 12, 1772-1822).

Hồ Hưng Dật (viễn tổ)

... (11 đời)

Hồ Kha (thủy tổ họ Hồ làng Quỳnh Đôi)

Hồ Hồng (thủy tổ)

(1) Hồ Hân (quản lĩnh hầu)

(2) Hồ Ước Lễ

(3) Hồ Khắc Kiệm (ông tổ trung chi 2)

... (đời 4, 5, 6, 7)

(8) Sĩ Anh

Thế Viêm

Phi Khang

Phi Phú

Phi Tứ

Phi Thọ

Phi Trù

Phi Phúc

Nguyễn Nhạc

Nguyễn Bảo

Ng. V. Đâu

Nguyễn Huệ

Ng. Quang Thiệu

Ng. Quang Bàn

Ng. Quang Toản

Nguyễn Lữ

Phi Huống

Phi Cơ

Phi Gia

Phi Diễn

Xuân Hương

Danh Lưu

Phi Tích

Phi Đoan

Tài liệu tham khảo:

  • „Hồ Tông thế phả“ (Hồ Sĩ Dương soạn, các hậu duệ chép bổ sung). Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương (1621-1681) sống cùng thời với Hồ Thế Anh (1618-1684).Trong số các hậu duệ có Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1738-1785) sống cùng thời với Hồ Phi Phúc và cùng thế hệ với 3 anh em nhà Tây Sơn
  • „Hồ gia thực lục, bản chi thế thứ tục biên“ của tú tài Hồ Phi Hội (1802-1875), cháu 5 đời của Hồ Sĩ Anh và cùng thế hệ với Hồ Xuân Hương – Nguyễn Huệ
  • Ghi chép của Án sát Hồ Trọng Toàn (1801-1864)
  • Hồ Quỳnh gia phổ của chi Hồ Phi Tích, Thư viện Hoàng Xuân Hãn, Paris

Ghi chú: Thế thứ ghi ở trên là thế thứ họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Đời 1 nếu tính từ Nguyên tổ (Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, thế kỷ thứ 10) là đời 15.

Theo „Hồ Tông thế phả“: Con của Phi Khang là Phi Phú, Phi Thọ, Phi Trù, Phi Phúc, Phi Huống từ Quỳnh Đôi di cư lên Nhân Lý (Nhân Sơn, Quỳnh Hồng ngày nay) rồi một chi chuyển cư vào Thái Lão – Hưng Nguyên, tiếp theo một chi vào trại Tây Sơn – Qui Nhơn.

Trần Thanh Mai (tạp chí Văn học số 10-1964) cho rằng Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783), em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786). Thế nhưng „Hồ Tông thế phả“ chép: „Phi Diễn sinh nữ Xuân Hương ư Khán Xuân phường“ (Phi Diễn sinh con gái Hồ Xuân Hương ở phường Khán Xuân)

Từ đời thứ II đến đời thứ XI không chấp nối thế thứ được. Đời XII, ngài Hồ Liêm ( Làm con nuôi Ngài Tuyên sứ Lê Huấn ) ở hương Đại Lại Hà Đông, Hà Trung,Thanh Hoá. Cháu 4 đời của Hồ Liêm là Hồ Quí Ly lập nên triều đại nhà Hồ (1400 - 1407). Hồ Liêm là thái thuỷ tổ họ Hồ Thanh Hoá.

          Một nhánh họ Hồ khác sinh sống tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là ngài Hồ Kha, đời thứ XIII. Ngài Hồ Kha có hai con, con trưởng là Hồ Hồng, con thứ là Hồ Cao. Hồ Hồng là thuỷ tổ họ Hồ Quỳnh Đôi. Hồ Cao là thuỷ tổ họ Hồ Tam Công làng Qui Trạch, Yên Thành tỉnh Nghệ An. Hồ Hồng có ba con trai: Hồ Hân và Hồ Hữu Nhân sinh sống tại Quỳnh Đôi. Hồ Thuận Hóa vào  miền Nam. Sau đó Hồ Hồng tham gia quân đội chỉ huy hơn 2000 lính vào trấn thủ Tân Bình - Thuận Hoá. Tại Tân Bình ông còn ngôi lăng mộ nguy nga. Tại Thuận Hoá, ông có vợ và con cháu sinh sống đông đúc tại 2 phủ Tân bình và Thuận Hoá.Hồ Hồng là thuỷ tổ Họ Hồ An Cưu , An Truyền huyện Phú Vang – Thừa Thiên và là thỉ tổ họ Hồ làng Cẩm Sa, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam.

Hồ Hân và bà chánh thất Hoàng Thị Xạ sinh hai con trai. Con trưởng là Hồ Ước lể, con thứ là Hồ An; với bà kế thất sinh Hồ Hưởng Phúc (sinh sống tại làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu) tại làng Thượng Yên.

Con cháu của ngài Hồ Hân rất phát triển nổi bật như : Ba anh em nhà Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguễyn Lữ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương; 3 trạng nguyên : Hồ Sĩ Đống, Hồ Phi Tích, Hồ sĩ Tôn; Tể tướng Hồ Sĩ Dương; các Tiến sĩ Hồ Ước Lễ, Hồ Sĩ Tân, Hồ Doãn Hài, Hồ Trọng Kỳ, Hồ Sĩ Tuấn….

Đời Lê Trang Tông, Nguyễn Hoàng được phong tước Đoan Quận Công. Hiểu ý câu nói của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “ hoành sơn Nhất Đai, Vạn Đai Dung thân” và theo lời khuyên của cậu là Nguyễn Ư Kỷ,ngài nhờ chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hoá.

Năm Mậu Ngọ (1558) Nguyễn Hoàng đem những người đồng hương huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá: Nguyễn Ư Kỷ, Nguyễn Dương, Trương Phúc Gia, Tống Hữu Sĩ. Nguyễn Đức Tráng và 1000 nghĩa dũng tỉnh Thanh Hoá vào trấn thủ Thuận Hoá, vào đóng quân tại Ai Tử huyện Vũ Xương ( Quảng Trị)

Hồ Minh  có mặt trong đoàn nghĩa dũng đất Thanh Hoá. Ngài Hồ Minh là hậu duyệt của tổ Hồ Liêm – thái thỉ tổ họ Hồ Thanh Hoá tổ 4 đời của hoàng đế Hồ Quí Ly.

          Ngài Hồ Minh có khám thờ và hài vị thờ tại miếu ông làng Nguyệt Biều. Bài vị đế “Hồ Minh  đại lang, tiến sĩ Tùng Tiên Vương nhập nam và hứa thực biệt ban Nguyệt Biều”

Đệ nhất thế thỉ tổ: Hồ Minh

Đệ nhị thế tổ: Ông thuật Hồ Đình Thám

Đệ tam thế tổ: Ông thái Hồ Đình Tú

Đệ tứ thế tổ: Ông chữ Hồ Đình Ỷ

Đệ ngủ thế có 6 dánh. Hiện nay có hai dánh.Dánh I Thỉ tổ là ngài Hồ Đình Câu. Dánh II là ngài Hồ Quang Đội.

Đệ lục thế tổ: Hồ Quang Đại

Hồ Quang Đại đổ thủ khoa khoa thi chính năm Nhâm Thìn (1652). Ngài được bổ vào Văn Chức Viện tại Chính Dinh ( 1652). Năm Thái Tông thứ VIII (1656) được trao chức tri huyện Phú Vang. Năm Thái Tông thứ XI (1659) được Thăng làm tri phủ Thăng Hoa ( Quảng Nam + Quảng Ngãi). Năm 1667 được triệu về Chính dinh phong làm phụ chính  đi  duyệt tuyển các phủ huyện. Các tờ sắc cấp cho Hồ Quang Đại hiện thờ tại miếu ông làng Nguyệt Biều cho biết:

-        Năm 1667 duyệt tuyển huyện Tuy Viễn, phủ Qui Ninh

-        Năm 1668 duyệt tuyển huyện Phù Ly, phủ Qui Ninh

-        Năm 1669 duyệt tuyển huyện, phủ Diên Ninh, Phủ Phụng Khương

-        Năm 1669 duyệt tuyển huyện, Huyện Tuy Viên, Phủ Qui Ninh

-        Năm 1669 duyệt tuyển huyện, huyện Gia Môn,Phủ Qui Ninh

-        Năm 1670 duyệt tuyển huyện, huyện Bồng Sơn, Phủ Qui Ninh

-        Năm 1671 duyệt tuyển huyện, huyện Tuy Viễn, Huyện Phù Ly

Phủ Qui Ninh nay là tỉnh Bình Định, phủ Diên Ninh nay là Ninh Hoà, Phủ Phụng Khương sau đổi là Thái Khương nay là Tỉnh Khánh Hoà.

Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn ghi: Đến đời chúa Hiền ( Nguyễn Phúc Tần ), việc đo đạc mới chu đáo hơn và các ruộng đất cùng ngạch thuế được ấn định rõ ràng. Năm kỷ dậu 1669 sai dân thần là Hồ Quang Đại chia nhau đi đo đạc những ruộng đất cày cấy của các xã dân các hạng.

Năm 1672 ngài Hồ Quang Đại được cử làm Thi Giảng Tri Kinh Diên cho chúa Nghĩa ( Nguyễn Phúc Trăn ) và cho chúa Minh ( Nguyễn Phúc Chu ) chết được tặng Quốc Sư.

Hồ Quang Đại được thơ tại Miếu Ông của làng Nguyệt Biều. Ngài cũng được thờ tại miếu ngài Hồ tại làng Hương Cần và thờ tại đình chính làng Hương Cần và thờ tại đình chính làng hương Cần. Ngài còn được phong làm thành hoàng làng Hương Cần, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Bài vị thờ Hồ Quang Đại tại Miếu Ông, làng Nguyệt Biều :”Nhâm Thìn niên Thi Trúng Giám Sinh Thủ Khoa, Thị Giảng , Phụ Chính An Biên, Phước Đức Quốc Sư Hồ Quí công Thần Vị”

Tại miếu ngày Hồ , làng Hương Cần, bài vị ghi: “ Nhâm Thìn khoa, trực Thủ Khoa, Phước Đức Tôn Thần”.năm Đinh Tỵ triều Khải Định , bài vị sửa lại là: Dực Bảo Trung Hưng linh phò Bổn Thổ Thần Hoàng, Hồ Qui công Tôn Thần”

Tại đình chính làng Hương Cần, nghi  văn thờ Hồ Quang Đại ghi:” Bổn Thổ thành hoàng Hồ Thiện Phước Đức Quí Công”.

 Ngài Hồ Quang Đại lấy bà chánh thất Phan Thị Do sinh 7 con trai và 2 con gái sinh sống tại làng Nguyệt Biều, con cháu chia 4 phái:

-        Phái nhất: Hồ Quang Tài

-        Phái nhì: Hồ Quang An

-        Phái ba: Hồ Quang Đôn

-        Phái tư: Hồ Quang Tằng

Ngài Hồ Quang Đại còn có bà thứ thất sinh 7 trai, sinh sống tại làng Hương Cần, Hương Trà, Thừa Thiên hiện nay còn đủ 7 phái:

-        Phái Tống Hồ thỉ tồ là Hồ Văn Duyên

-        Phái Hồ Tống thỉ tổ là Hồ Tống Học

-        Phái Hồ Đức thỉ tổ là Hồ Đức Lang

-        Phái Hồ Đăng thỉ tổ là Hồ Đăng Văn

-        Phái Hồ Công thỉ tổ là Hồ Văn Nê

-        Phái Hồ Hữu thỉ tổ là Hồ Hữu  Đường

-        Phái Hồ Văn thỉ tổ là Hồ Văn Đệ.

Con cháu họ Hồ nhiều người hiển đạt.

·    tại Nguyệt Biều các ngài sau:

1.    Hồ Quang Đại, Phước Đức Quốc Sư, Đức Xuyên Tử

2.    Hồ Quang Ân, tri phủ, Ân Nghĩa Tử

3.    Hồ Quang Tuyên, tri phủ, Tuyên Đức Hầu

4.    Hồ Quang Đôn, tước Đòn Minh Nam

5.    Hồ Quang Thanh, tri huyện, Tước Thuần Nam

6.    Hồ Quang Anh, thư  Đội Trưởng, Diễn Tài Bá

7.    Hồ Hữu Thẩm, Bố Chánh Sứ, An Sát Sứ, Quản Nội Vụ, Thẩm Thận Hầu.

8.    Hồ Quang Ngôn, Tham Luận, Ngôn Đức Hầu

9.    Hồ Quang Châu, Tham Mưu, Châu Thành Hầu

10. Hồ Quang trực, Trực Thiện Hầu

11. Hồ Xuyên, Quản vụ Thái Giám

12. Hồ Hữu Hoa, Phó Quản Cơ

13. Hồ Thị Ý Nhi, Cung nhân vua Thiện Trị, mẹ công chúa Đồng Xuân

14. Hồ Thị Hoa, cung nhân vua Thiện Trị

15. Hồ Xuân Bàng, Đốc sự Thượng Hạng, Nha Tài Chính, Giám Sự Chuyên Môn Nha Thông Tin Trung Việt, Nhà Cách Mạng dưới chính quyền đệ nhất Cộng Hoà.

16. Hồ Xuân Anh, Thư  Ký Sở Thuỷ Lâm Huế. Trung Tướng quân đội Nhân Dân Việt Nam. Trưởng phái đoàn mặt Trận Giải Phóng Miền nam tham dự phái đoàn quân sự 04 bên tại Tân Sơn Nhấttrước chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam. Đại Sứ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Cộng Hoà An Độ, Cu Ba.

 

·    CON CHÁU HỌ HỒ LÀNG HƯƠNG CẦN

1.    Hồ Văn Mai, Chưởng Dinh, Mai Đức Hầu

2.    Hồ Văn Chữ, Chánh Đề Đốc

3.    Tống Hồ Thụ, Đô Chỉ Huy Sứ, Nguyên Ninh Hầu

4.    Tống Hồ Phái, Đội Trưởng, Phái Diễn Hầu

5.    Tống Hồ Tín, Đội Trưởng, Tín Thành Hầu

6.    Tống Hồ Ban, Đội Trưởng, Tước Ban Tài Hầu

7.    Tổng Hồ bảng, Thứ Đội Trưởng,Bản Trung Bá

8.    Tống Hồ Thị Đặng, Hiếu Minh Hoàng Hậu

9.    Tống hồ Nhạc, Thứ Đội Trưởng, Nhạc Sơn Hầu

10. Tống Hồ Khánh, Thứ Đội Trưởng , Khánh Long Hầu

11. Tống Hồ Yến, Trấn Biên Doanh Lưu Thủ Cai Cơ, Yến Dực Lầu

12. Tống Hồ Hoà, Đội Trưởng, Tước Hoà Khánh Hầu

13. Tống Hồ Giao, Vọng Các Công Thần, Cai Cơ, Giao Đức Hầu

14. Tống Hồ Đạm, Vọng Các Công Thần, Giám Quân Trung Dinh, Tước Tuấn Nghĩa Hầu.

15. Tống Hồ Đàm, Cai Đội Tuấn Vũ Hầu

16. Tống Hồ Đạo, Cai Đội, Tước Đạo Đức Hầu

17. Tống Hồ Anh,Cai Cơ

18. Tống Hồ Thanh, Thiếu Sư, Tước Tôn Nghĩa Hầu

19. Hồ Công Kính, Tước Kính Đức Hầu

20. Hồ Tống Dánh, Thượng Tướng

21. Hồ Đăng Phong, Tham Tri, Cử Nhân Hương Thí

22. Hồ Văn Thông, Quản Cơ, Cử Nhân Võ.

 

Hồ Xuân Thiện (Theo http://hohovietnam.vn )


 

HỌ HỒ PHÚC Ở QUỲNH LIÊN VỐN GỐC QUỲNH ĐÔI

PHẦN I: CỘI NGUỒN HỌ HỒ

1.SƠ LƯỢC CỘI NGUỒN

Nguyên tổ họ Hồ Viêt Nam là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật sinh ra ở huyện Vũ Lâm tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, đậu trạng Nguyên vào năm thứ 2 đời Hán Ẩn Đế thời hậu Hán (năm 947-950), sang Giao Châu Việt Nam giữa thế kỷ thứ X, làm quan Thái thú Châu Diễn một thời gian thì loạn 12 sứ quân, cụ từ quan về lập trại chủ ở hương Bào Đột, nay là xã Ngọc sơn huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An
Tiên Tổ họ Hồ là Vua Ngu Thuấn (2255 - 2208) trước Công nguyên đến đời Ngu Yên có con là Ngu Vỹ Mãn, do có công dẹp loạn ở đất Trần và được Chu Vũ Vương ban cho vùng đất đó, phong cho là Hồ Công (Tước Công). Những đời sau dân vùng đó nhớ ơn Ngu Vỹ Mãn nên các họ đều dùng chữ Hồ làm họ.

Trạng nguyên Hồ Hưng Dật là con cháu nhiều đời của Vua Thuấn thuộc Tộc Bách Việt. Ngu Thuấn được Đường Nghiêu truyền ngôi, sau thường gọi là đời Đường Ngu hay đời Nghiêu Thuấn đời thịnh trị nhất của thời thượng cổ Trung Quốc, tương đương với thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang Việt Nam. Nghiêu và Thuấn là hai tộc người khác nhau, Đào Đường Nghiêu thuộc Hán tộc, Hữu Ngu Thuấn thuộc Tộc Bách Việt,  ngày trước ở miền Nam Trung Quốc, sau bị Hán hóa gần hết, (trừ tộc Lạc Việt và Âu Việt" ở Việt Nam qua nhiều bước thăng trầm và bị Bắc thuộc trên ngàn năm, nhưng vẫn không bị Hán hóa, trái lại người phương Bắc sang Việt Nam dần dần được Việt hóa.
          Cụ Hồ Hưng Dật đậu Trạng Nguyên vào thời loạn, thời Ngũ Qúy , (năm Triều đại tranh nhau quyết liệt ) đó là: Hậu Lương (907 - 923), Hậu Đường (923 - 936), Hậu Tấn ( 936 - 947), Hậu Hán (947 - 950), Hậu Chu (951 - 960).     Theo sử Nhà Nguyễn chép: (… Hồ Hưng Dật trôi dạt sang Viêt Nam, do đã đậu Trạng nguyên nên được bổ nhiệm làn Thái thú Châu Diễn...)”trôi dạt” có thể hiểu là lánh nạn hay dịch cư.
           Trong một thời gian dài do thế sự thăng trầm, phổ ký thất lạc, gia phả thất truyền, song quốc sử có chép: Cháu 12 đời của cụ là Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên Phủ sứ Lê Huấn ở Thanh Hóa ,có cháu 4 đời là Hồ Qúy Ly…(tức Thánh Nguyên Hoàng Đế). Tộc phả chép: “…ở Châu Diễn có cháu 13 đời của cụ là Hồ Kha từ Qùy Trạch,Yên Thành dời lên sách Nghĩa Liêt, Nghĩa Đàn, sau lại dời xuống sách Hoàn Hậu, khai khẩn lập nên trang Thổ Đôi,huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cụ Hồ Kha cho con cả là cụ Hồ Hồng ở lại đất Thổ Đôi, sau này thành Tổ họ Hồ Quỳnh Đôi,con thứ là cụ Hồ Cao về lại Qùy Trạch,Yên Thành trở thành họ Hồ ở Thọ Thành,Yên Thành (họ Hồ Tam Công), còn cụ lại quay về Nghĩa Liệt, Đường Khê và mất tại đó.(Tiên sinh ồ ồ từ chữ Tiên Sinh họ Hồ nói trại ra)….”
- Cụ Hồ Hồng và bà Chính Thất: ở Quỳnh Đôi sinh được 4 người con:
              1. Trưởng nam Hồ Hân – Quan Quản Lĩnh Hầu
              2. Con gái        Hồ thị Sinh
              3. Con gái        Hồ thị Hỷ
              4. Con trai thứ Hồ Nhân - Hoan Quận Công, lập cư ở Phú Phong, Phú Đa xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Cụ Hồ Hồng tham gia quân đội thờiTrần, làm đến chức Chánh đội trưởng, chỉ huy trên 2000 nghìn quân, tham gia đánh giặc Chiêm Thành ở phía Nam. Cụ có con cháu ở Tân Bình nay thuộc xã An Cựu, Thừa Thiên Huế, nay có con cháu phát triển rất đông (ở Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng).
- Đệ nhất thế Tổ: Hồ Hân
           Cụ Hồ Hân là con trưởng của cụ Hồ Hồng, tham gia nghĩa quân Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn thành công. Lê Lợi lên làm Vua xếp ông vào hàng Tả Quốc Công Thần và giữ chức Quản Lĩnh Công. Ông và hai bà sinh được bốn người con:
          1. Con trai cả Hồ Ước Lễ - Đậu Tiến sỹ.
          2. Con gái bà Hồ Thị Thái.
          3. Con trai thứ Hồ An.
          4. Con trai thứ Hồ Hưởng Phúc (con bà thứ hai)
- Đời thứ hai: Cụ Hồ Ước Lễ.
Là con trưởng cụ Hồ Hân, đậu Tiến sỹ , giữ chức Chuyển vận Phó sứ.
Ông bà sinh được bốn người con:
          1. Con gái Hồ thị Phi.
          2. Con trai Hồ Khắc Cần – Đậu Hương cống.
          3. Con trai Hồ Khắc Kiệm – Tam trường Hội thí - Phó bảng.
          4. Con trai Hồ Khắc Tuấn – Hương cống.
             - Đời thứ ba: Cụ Hồ Khắc Kiệm
Tổ trung chi II, là con thứ của Tiến sỹ Hồ Ước Lễ. Bà họ Dương, hiệu Từ Huệ, sinh 3 trai:
          1.Con trai trưởng Hồ Phi Chiêu (ông Pháp), Tổ chung các tiểu chi 1, 2, 3, 4.
          2.Con trai thứ hai Hồ Khắc Triết (ông Hóa), Tổ chung các tiểu chi 5, 6, 7, 8.
          3.Con trai thứ ba Hồ Hâm – sinh con gái.
             - Đời thứ 4: Cụ Hồ Khắc Triết
Là con thứ hai của cụ Hồ Khắc Kiệm, bà cả không có con, bà thứ sinh được một người con trai là Hồ Dòng.
-Đời thứ 5: Cụ Hồ Dòng
Là con trai duy nhất của cụ Hồ Khắc Triết. Bà họ Hồ Thụy hiệu Từ Duyên, sinh 6 con trai và 4 con gái.
          1. Hồ Văn Đăng.
          2. Hồ Văn Gia (không có con).
          3. Hồ Văn Đài.
          4. Hồ Văn Khế (chưa rõ)
          5. Hồ Văn Thư (chưa rõ).
          6. Hồ văn Nhu (chưa rõ)  
             - Đời thứ 6:Cụ Hồ Văn Đài.
Là con trai thứ ba cụ Hồ Dòng. Bà họ Hồ thụy hiệu Từ An. Các con ở Quỳnh Đôi: Hồ Văn Minh - Sinh đồ; Hồ Thế Thái - Sinh đồ; con trai nữa xuống Thượng Yên chưa rõ.
             - Đời thứ 7: Cụ Hồ Văn Minh.
Cụ là con trai trưởng cụ Hồ Văn Đài, đậu Sinh đồ năm 1597, dạy học, thọ 80 tuổi. Bà họ Phạm, thụy hiệu Từ Huệ, sinh 3 trai; 2 gái.
          1. Hồ Văn Hoán- sinh đồ- tổ tiểu chi 6.
          2. Hồ Trồng (tức Hồ Lung - Hồ Phúc Thiện), tổ tiểu chi 7.
          3. Hồ Thích (Vô Hậu).
            - Đời thứ 8: Cụ Hồ Trồng – Tổ tiểu chi 7
Cụ là con thứ hai của cụ sinh đồ Hồ Văn Minh, tên tục là Hồ Lung, tên chữ là Hồ Phúc Thiện. Bà họ Hồ, sinh được 2 trai.
          1. Hồ Viết Nho (tức Nhu) - Sinh đồ.
          2. Hồ Phúc Sinh – Làm thầy dạy học, Tổ họ Hồ Phúc, làng Xuân Úc, nay thuộc xã Quỳnh Liên.
             PHẦN II: PHÁT TÍCH KHAI CƠ VÀ LƯỢC SỬ

            Trên 300 năm trước, cụ Hồ Phúc Sinh từ thổ Đôi Trang đã đến thôn Vân Úc làm nghề dạy học. Thích cảnh mến người cụ quyết định ở lại lập cơ nghiệp, mở ra dòng họ Hồ Phúc ở làng Xuân Úc, nay là xã Quỳnh Liên - Quỳnh Lưu - Nghệ An.
Theo “Hồ gia phổ kí” Hán văn của cụ Hồ Thế Lộc, cháu 10 đời của cụ soạn sau khi tìm nhận họ ở Hồ đại tộc ở Quỳnh Đôi năm Tân Dậu (1921): Cụ Hồ Phúc Sinh đời thứ 23 tính từ Nguyên Tổ, đời 9 (họ Hồ Quỳnh Đôi) phát tích từ làng Quỳnh Đôi, sinh ra trong một gia đình trí thức, dòng dõi khoa bảng. Cụ là con thứ hai của cụ Hồ Trồng (tức Hồ Lung) và là hậu duệ của cụ Hồ Hồng. Khoảng năm Vịnh Trị Triều Lê,( tức Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị 1676-1680), cụ sang làng ta (Vân Úc) dạy học, cụ rất thích và nhận thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, có vũng Sao Sa thiên tạo rất lạ, có giếng Long Tỉnh (hai mắt con rồng) đẹp tuyệt kỳ, một dải cát vàng chạy dài sáng đẹp lung linh, núi Quy Lĩnh, núi Càn Sơn đối giao nhau chầu về không xa, khí hậu trong lành khiến lòng cụ lưu luyến và quyết định ở lại lập nên cơ nghiệp cho con cháu mai sau. Cụ kết duyên với bà Hồ thị Hạt, sinh 3 trai; hai gái phân thành 3 phái. Cụ chính là thủy tổ 3 chi họ Hồ Phúc chúng ta.
Các nhà phong thủy cũng viết về nơi đây rằng: “Sơn thủy hữu tình, đông hải nhiệu Mai Giang cống phúc” nghĩa là phong cảnh sơn thủy hữu tình, biển đông bao la và dòng Mai Giang quanh co uốn khúc bao bọc, dâng phúc lộc cho đất này. “Mạch trụ hải rồng về ngàn dặm, cồn cồn đá lớp rõ có dằm thiêng”.
          Vị danh tướng Đặng Tế thời Nhà Lý, nay là thần Thành Hoàng đền Xuân Úc Quỳnh Liên không những nhìn nhận nơi đây là một vị trí quân sự làm nơi đóng quân mà ông còn nhìn nhận nơi đây bằng một nhà phong thủy: “Khí hậu ôn hòa, thiên nhiên tươi đẹp, con người phát triển phồn thịnh, phía đông bắc là núi Càn Sơn, phía đông nam có núi Quy Lĩnh, phía đông là biển đông bao la, phía tây là dòng Mai Giang quanh co uốn khúc.Trông xa hơn nữa về tây là núi rừng trùng trùng điệp điệp, ở giữa là một dải cát vàng chạy dài trong sông, ngoài biển tạo nên phong cảnh huyền ảo lung linh trông xa thật là kỳ diệu”…
Với mảnh đất phong cảnh tươi đẹp như vậy khiến cụ Phúc Sinh đến đây dạy học không khỏi lòng bâng khuâng lưu luyến và quyết định ở lại lập nghiệp tại nơi này, tạo nền móng lâu dài cho dòng họ Hồ Phúc ở Xuân Úc nay là xã Quỳnh Liên. Cụ sinh được 3 trai, hai gái: 
          1. Cụ Hồ Ngụ Đạo-tổ tiểu chi 1
          2. Cụ Hồ Lộ-tổ tiểu chi 2.
          3. Cụ Hồ Phúc Tâm-tổ tiểu chi 3.
Con cháu 3 chi phát triển phồn thịnh đến ngày nay.
         Hai người con gái không may sớm về với cõi tiên Phật trở thành hai bà cô tổ linh thiêng của con cháu họ ta.Tương truyền rằng: Hai bà cô Tổ, lúc bấy giờ rất linh thiêng, phụ hộ độ trì được cho con cháu trong họ, nhưng cũng hay mừng rỡ quấy vọc con cháu, nhất là trẻ nhỏ và các cháu sơ sinh, nên họ đã quyết định bán vào nhà chùa Tam Bảo (chùa của làng Xuân Úc) để theo tâm tính Phật hiền từ và từ đó hai bà không quấy vọc con cháu nữa. Ngày lễ giỗ hai bà được tổ chức tại chùa Tam Bảo hàng năm vào ngày 14/2 (âm lịch), hiện văn tế giỗ hai bà vẫn còn lưu giữ ở gia phả đến ngày nay.
           Vậy là họ Hồ Phúc có mặt trên đất Vân Úc  vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII, đời vua Lê Huy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680), đặt nền móng cho dòng họ là cụ Hồ Phúc Sinh, người Thổ Đôi Trang thuộc hậu duệ cụ Hồ Hồng (cụ tổ họ Hồ Quỳnh Đôi) và là di duệ Nguyên Tổ Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật (tổ mở đầu họ Hồ trên đất Việt Nam).Cha cụ là nhà giáo Hán học Hồ Trồng (tức Hồ Lung, tổ họ Hồ tiểu chi 7, Quỳnh Đôi), anh ruột cụ là sinh đồ Hồ Viết Nho (tức Nhu) nên cụ sang đây cũng làm nghề dạy học cho dân ở vùng này.
           Phần mộ cụ thủy tổ Hồ Phúc Sinh được đặt tại địa bàn dông xóm ngoài thuộc Hạ Lân, thôn Phương Cần, ngày nay thuộc địa phận xóm 5, xã Quỳnh Liên, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trước đây xóm ngoài thuộc 3 xóm bao gồm: Xóm trong nay là xóm 3, xóm giữa nay là xóm 4, xóm ngoài nay là xóm 5, ba xóm này trước đây thuộc Hạ Lân thôn Phương Cần (phương Cần tức Quỳnh Phương ngày nay).  Mộ cụ Thủy Tổ được đặt trên đất con chim Phượng, hình dáng nó đang bay về biển đông, tượng trưng Tổ đang cưỡi trên lưng con chim phượng bay tới đại dương bao la. Mộ đặt theo hướng đông đông nam, địa lý phong thủy rất đẹp. Hiện nay do cuộc sống dân cư đã làm biến đổi hình dạng đia lý và có nguy cơ xâm hại đến phần mộ, tường bao của các gia đình ở xung quanh đã xây tận móng bệ của mộ, phần mộ chỉ còn khoảng 4,5 x 5 = 22,5m2, rất cần sự bảo vệ của họ và anh em con cháu trong dòng họ.
          Phần mộ bà Thủy Tổ Hồ Thị Hạt được đặt tại địa bàn Dông Rộc Chánh làng Xuân Úc, nay thuộc vùng đất canh tác của xóm 5 xã Quỳnh Liên. Mộ được đăt trên đất con ngựa, ngay chính gIữa mắt, hình dáng ngựa đang phi về hướng bắc. Hướng của mộ là đông nam, trông tới chính giữa ba đường nước hội lại có án có ngự vững chắc, địa lý rất đẹp sinh khí rất tốt.
         Phần mộ Tổ ông và Tổ bà được họ và con cháu xây lăng vào năm Kỷ Tỵ 1989, kiểu thiết xây dựng nguyên tích như ngày nay.
         Qua sưu tầm khảo cứu, đến nay vẫn chưa có tư liệu bút tích nói về năm sinh, năm mất của cụ tổ, nhưng có mấy căn cứ ước tính sau đây:
           Con cháu cụ đến nay có 15 đời, tính bình quân mỗi đời là 25 năm thì 
năm sinh cụ sẽ là 2009 - (25x15) = năm 1632.
          - Theo tài liệu tiểu chi 7, họ Hồ Quỳnh Đôi thì năm sinh của cụ sinh Hồ Viết Nho, anh ruột của cụ sinh năm 1636, đậu Sinh đồ năm 1660. Từ đó ước đoán gần đúng năm sinh của cụ Hồ Phúc Sinh khoảng năm 1640. Đến năm Vĩnh Trị triều Lê (1676-1680) khi dịch cư sang làng Xuân Úc lúc cụ khoảng gần 40 tuổi.   
                     
            PHẦN III: CÁC THẾ HỆ TỔ TIÊN KẾ TIẾP

            1.Các con của cụ Tổ họ Hồ Quỳnh Liên
          Cha là nhà giáo Hán học nên 3 người con trai của cụ Tổ đều được nuôi dưỡng ăn học chu đáo. Người con trai út của cụ là cụ Hồ Phúc Tâm dưới triều Lê được giữ chức An Định Quận, con trai trưởng là Hồ Ngũ Đạo và con trai thứ là Hồ Lộ cũng cần cù khổ học, được truyền thụ khiến thức đầy đủ, rộng sâu, thông kinh sáng sử, nhưng các cụ không ra tranh khoa chen bảng, mà chỉ chăm lo ruộng vườn, lao đông sản xuất xây dựng cuộc sống cho gia đình,cho làng xóm quê hương, giáo dục con cháu học hành tiến bộ, tu dưỡng đạo đức, cần cù lao động sản xuất và phát huy truyền thống hiếu học của dòng họ.
         2.Các đời tiên Tổ tiếp theo.
         - Cụ Hồ Phúc Thiềm, đời thứ 7 của cụ tổ Hồ Phúc Sinh, là người có học vấn rộng sâu, được dân làng tín nhiệm bầu làm Lý trưởng của làng Xuân Úc. Vì lo việc công, việc dân mà quên việc gia đình. Vợ là bà Nguyễn Thị Mỹ, tục gọi là bà Ba, là một người có tấm lòng nhân hậu, khi biết mình không có con trai, nên đã động viên chồng và tìm mọi cách để chồng có người nối dõi tông đường, trong lúc ông không quan tâm đến bà hai (câu chuyện rất chi tiết còn được lưu giữ).
       - Cụ Hồ Phúc Phương (tự là Xuân Phương), đời....
       - Gương học và tài thông của cụ Hồ Phúc Doạt đời thứ 8 đã làm cho mọi người kính phục: Lúc còn nhỏ cụ Doạt đã tỏ chí cần cù, ham học, sẵn vốn thông minh, lớn lên cụ càng chăm học và nổi tiếng học thông.Nhưng cụ không ra tranh khoa cử mà ở nhà lao động sản xuất và có uy tín với công việc “làm thầy phù thủy” giúp dân trong cuộc sống tâm linh.
        - Cụ Hồ Phúc Chung, đời thứ 8: Sinh năm Qúy Mão 1843 mất năm Nhâm Tý 1912 thọ 70 tuổi sinh ra và lớn lên nối nghiệp cha ông, bút nghiên kinh sử, học đạo thánh hiền. Cụ tham gia việc họ, việc làng, giữ các chức Lý trưởng, Chủ tế, Hương mục. Tổ chức đắp đê ngăn mặn, cải tạo hàng chục hec ta đất ven sông Mai Giang trở thành đất lúa tốt tươi. Cụ còn có công xây dựng xóm làng, họ tộc. Nhớ công ơn của cụ, con cháu đã làm lễ tế  Tổ, theo ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm.
        - Cụ Hồ Phúc Đẩu , đời thứ 8:lớn lên tham gia quân đội triều đình, có công lớn nên được vua lúc bấy giờ phong tặng “Huy chương ân tứ”.
         - Cụ Lê Thế Lộc , đời thứ 10: Sinh năm Đinh Hợi 1887 mất năm Mậu Dần1938 thọ 52 tuổi là người cần cù khổ học, bản tính thông minh, Nho – Y – Lý            - Số thông tường, giữ các chức Lý trưởng, Hương mục, Chủ tế làng. Là người có công lớn tìm nhận họ Hồ đại tộc Quỳnh Đôi vào năm Tân Dậu (1921) khi họ bị thất lạc một thời gian dài. Cụ cũng là người có công soạn lập Gia Phả của họ ba chi đầu tiên “Hồ Gia Phổ Ký” Hán văn vào năm 1936, được các cụ ở họ Hồ Đại Tộc Quỳnh Đôi đánh giá cao về vốn học và tài thông minh của cụ: “Nếu như ở đất Quỳnh Đôi sẽ là quan lớn”. Câu nói bất hủ của cụ “người ta bỏ tiền mua đất dông cồn, ông con tôi bỏ sức khai hoang ruộng đồng”. Thời đó một số người nhiều tiền, họ bỏ ra mua đất với mục đích được mọi người dân biết vùng đất đó là của mình, nhưng không  có lợi ích khinh tế gì đối với họ.Còn với cụ Lộc tiếp nối ông cha vận động anh em con cháu, tiếp tục khai khẩn vùng trong giáp sông Mai Giang thành một vùng rộng lớn nuôi tôm cá và cấy lúa tốt tươi.
           - Cụ Hồ Phúc Kim Thanh, đời thứ 10: Suốt đời không rời đèn sách, không ngừng học tập, là người thông kinh, sáng sử, học rộng biết nhiều. Thời Hán học cụ mở các khóa dạy Nho học cho con cháu trong họ và nhân dân trong làng. Cụ luôn giáo dục con cháu ăn ở hiền lành, sống có hiếu đạo. Cụ được người đời ca ngợi và tôn kính. 
        - Cụ Hồ Phúc Tịnh (tức Thế Tịnh), đời 11: Sinh năm Đinh Mùi 1907 mất năm Canh Thìn 1940 là người thông minh sáng dạ, được nuôi dưỡng ăn học từ nhỏ.Cụ không những là người thông kinh sáng sử về Nho học mà cụ còn là 1 trong 5 người trong làng Xuân Úc học chữ Quốc Ngữ đầu tiên, đó là các ông: Kiểm Phát, Bộ Tin, Cò Chiến và cụ Hồ Phúc Trân. Về thú chơi cờ tướng, khi Huyện nhà tổ chức hội thi đánh cờ tướng cụ cũng nhận được giải nhì của huyện.Thời kỳ trước cách mạng tháng 8 năm 1945 khi có vốn kiến thức chữ quốc ngữ, cụ được cách mạng Việt Minh giao nhiệm vụ rãi truyền đơn tuyên truyền về đường lối cách mạng cho nhân dân. Phạm vi hoạt động rãi tryền đơn của cụ được giao từ Cung Đất Đỏ (tức xã Quỳnh Văn – Quỳnh Lưu ngày nay) ra đến khe Nước Lạnh giáp địa phận đất Thanh Hóa. Khi đi hoạt động rãi truyền đơn, cụ cải trang quảy lồng chim làm người đi đánh chim. Nhưng thật tiếc thay, chưa đến ngày Cách Mạng thành công thì cụ đã ngã bệnh và đã qua đời năm 1940 khi cụ vừa bước sang tuổi 34. 
          3. Thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8-1945.
         - Ông Hồ Phúc Cầu, đời thứ 12:làm chủ tịch UBHC xã trong cải cách ruộng đất (1955-1956). 
          - Ông Hồ Phúc Vơng, đời thứ 10 làm chủ tịch UBHC xã năm1956 -1957.
          - Ông Hồ Phúc Phụng, đời thứ 11 là cán bộ , Đảng viên suốt đời trung chính, thanh liêm.
          - Ông Hồ Văn Hờu, đời thứ 12 với gần 30 năm tham gia quân đội (1954-1983), đại úy đồn trưởng bộ đội biên phòng, là thương binh, cả cuộc đời phục vụ cho cách mạng.
            Các thế hệ con cháu tiếp nối đến nay vẫn luôn phát huy truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động sản xuất, có nhiều gia đình con cháu có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhưng vẫn cố gắng đầu tư cho con ăn học đến đại học ,cao đẳng.Con cháu họ đều giữ được phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm, siêng năng, chịu khó, chịu khổ vươn lên làm giàu từ các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, kinh doanh..vv..trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, con cháu họ ta đã đóng góp sức người , sức của góp phần giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
           4.Công tác xây dựng và phát triển dòng họ.
         Trải qua trên 300 năm, dòng họ phát triển đến nay có 15 đời, có khoảng 200 hộ, 360 đinh và trên 700 khẩu, chủ yếu sống tại quê hương, còn khoảng ¼ con cháu sống rải rác trong huyện, trong tỉnh và trên cả nước.
          - Về xây dựng nhà thờ:
Nhà thờ họ được khởi công xây dựng từ năm 1998 trên khuôn viên 750m2. Thiết kế tổng thể gồm : Hậu cung, chính đường, tả vu hữu vu, sân thượng, nhà bái đường, sân hạ, cổng nghinh môn và được bao quanh tường rào tạo thành khuôn viên quy củ. Tổng giá trị công trình ước tính khoảng 350 triệu đồng do con cháu cung tiến và đóng góp.Công trình khánh thành và đưa vào sử dụng tế tự ngày 14 tháng giêng năm Canh thìn(2000). 
         Riêng nhà thờ họ của tiểu chi 2 được xây dựng năm 1922 do ông Hồ Thế Lộc bỏ tiền cung tiến, anh em con cháu trong chi bỏ công xây dựng. Hàng năm tổ chức tế tự tôn nghiêm, hương khói quanh năm.
Việc tế tổ theo lệ cũ từ xưa vào ngày 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, duy trì hương khói ngày rằm, mồng một hàng tháng, các ngày tết nguyên đán, rằm tháng 7 hàng năm.
         - Về tổ chức và hoạt động của họ.
Sau khi họ hợp tế tổ từ 3 chi lần 2 vào năm 1974, đến năm 1985 họ đã thành lập ban cán sự và duy trì hoạt động của họ cho đến ngày nay. Ban cán sự có Trưởng Ban, có một thư ký và các tiểu ban. Ban phân công nhiệm vụ như sau: 
          + Trưởng ban phụ trách chung.
          + Tiểu ban nội dung: Tham mưu hiến kế những việc quan trọng của họ.
          + Tiểu ban tài chính-xây dựng: Chuyên lo nghiên cứu ,thiết kế dự toán các công trình xây dựng thông qua họ và tổ chức triển khai thực hiện.Chăm lo xây dựng quỹ họ, theo dõi công tác tài chính của họ.
          + Tiểu ban từ đường: Chăm lo việc lễ nghi, hương khói, thờ phụng. tế tự hàng năm.
          + Tiểu ban sử: Nghiên cứu soạn thảo lịch sử, ghi chép gia phả dòng họ.
          + Tiểu ban khuyến học: Chuyên lo công tác khuyến khích việc học tập của con cháu trong dòng họ.
           PHẦN IV: LỜI TỰA CHO CUỐN GIA PHẢ CHỮ HÁN CỦA HỌ 
                    (Do cụ Hồ Thế Lộc đời thứ 10 biên soạn năm 1936)
          Bản dịch chữ Hán:    “HỒ GIA PHỔ KÝ”
          Thế Lộc tôi từng nghe: Người khôn biết nối truyền tế văn, người ngu dốt nối truyền bia văn. Gia phả cũng vậy, bia văn cũng vậy. Từ muôn đời xưa cho rằng bia văn là nhất.Vậy gia phả cũng xem quan trọng lớn thứ nhất.Làm con cháu chắt chút, ấy tế văn cùng bia văn, chịu ngồi yên mà nhìn sao?
Cho nên họp huynh trưởng 3 chi xin vâng làm gia phả, hợp chép thành trường thiên.Thế Lộc tôi thiển nghĩ, chẳng khuất phục từ nan, khảo cứu gia phả cũ của ba chi, với các hiệu tiên tổ sao ở gia phả Quỳnh Đôi hợp làm một bản.Soạn lập, chỉnh biên chép thành phả tộc, lưu lại cho con cháu sau này đến ngàn đời hậu duệ xem đó mà chẳng nghi hoặc.Tiên tổ hưởng thờ tự vô cùng, Thế Lộc tôi cũng trông nhiều vậy, lấy làm lời tựa này.Ngày 12 tháng giêng năm Bảo Đại thứ 11( năm Bính Tý1936)
           -Trưởng chi                   :Hồ Tương      - Phụng tự.
           - Đệ nhị chi trưởng chi  :Hồ Thế Lộc   - Phụng soạn(Soạn thảo).
           - Đệ tam chi trưởng chi :Hồ Tựa           - Phụng hội(Dự họp).
           - Đệ tam chi trưởng chi :Hồ Khuơn      - Phụng hội  (tứcHồ khương)
           - Lão họ                         :Hồ Tam          - Phụng hội.
           - Nội tôn                        :Hồ Thế Tịnh   - Phụng tả  (ghi chép).
                                        “HỒ GIA PHỔ KÝ”
   Ghi nhớ gốc tích tổ tiên ta:
       Cụ Hồ Phúc Sinh phát tích từ làng Quỳnh Đôi. Sinh ra trong một gia đình trí thức, dòng dõi khoa bảng. Cụ là con thứ 2 cụ Hồ Trồng và là hậu duệ cụ Hồ Hồng.
Khoảng năm Vĩnh Trị triều Lê, ( tức Lê Huy Tông niên hiệu Vĩnh Trị 1676-1680), cụ sang làng ta (Vân Úc) dạy học.Cụ rất thích nhận thấy nơi đây phong thủy hữu tình, có ao sao thiên tạo rất lạ, có giếng Long Tỉnh tuyệt kỳ, một dải cát chạy dài lung linh, núi Quy Lĩnh, núi Càn Sơn đối giao nhau chầu về không xa, khí hậu mát mẻ trong lành, khiến cụ lưu luyến và quyết định ở lại lập nghiệp.
Cụ kết duyên với bà Hồ Thị Hạt, sinh hạ 3 nam, phân ra 3 phái, cụ chính là thủy tổ 3 chi họ ta.Qua các đời tới nay, gia phả chỉ biên chư tiên mỹ hiệu để tiện phụng thờ mà chưa tường gốc ngọn.
         Đến cuối mùa đông năm Tân Dậu (1921) phụng nhận gia phả ở đại tộc Quỳnh Đôi sao từ bản gốc, nhất nhất minh bạch, hợp với gia phả 3 chi, soạn lập chỉnh biên, chép thành phả tộc, lưu mãi cho con chaú muôn đời.
Hi vọng rằng, các bậc hiều nhân còn nhiều, con cháu đời này sang đời khác sẽ kế thừa và phát huy hoa phổ tốt đẹp của dòng họ Hồ ta.Rất trông nhiều!
        PHẦN V: NHỮNG SỰ KIỆN VÀ MỐC LỊCH SỬ
         1.Thời kỳ cụ Tổ đặt nền.
         Họ Hồ Phúc có mặt trên đất Vân Úc Điếm vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII, đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị năm 1676-1680. Đặt nền móng cho dòng họ là cụ Hồ Phúc Sinh, người Thổ Đôi Trang thuộc hậu duệ cụ Hồ Hồng, cụ tổ họ Hồ Quỳnh Đôi và di duệ cụ tổ trạng nguyên Hồ Hưng Dật, tổ mở đầu họ Hồ Việt Nam. Cha cụ là nhà giáo Hán học Hồ Trồng(tức Hồ Lung), anh ruột cụ là sinh đồ Hồ Viết Nho (tức Hồ Nhu) cụ tới Vân Úc làm nghề dạy học và nhận thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, khí hậu mát lành, lòng người nhân hậu nên quyết định ở lại xây dựng cơ nghiệp và đặt nền móng lâu dài cho con cháu mai sau.
(Vân Úc xa xưa là Điếm Vân Úc, rồi thôn Vân Úc, sau triều Nguyễn mới gọi là Xuân Úc thuộc xã Hoàn Hậu Đông, tổng phú hậu nay là Xuân Úc Xã Quỳnh Liên-Quỳnh Lưu-Nghệ An. Thổ đôi nay là xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, là đất khoa bảng văn chương, nhiều người đã đỗ đạt cao và không ít người hoạt động trên lĩnh vực quan trường. Cũng trên đất này rất nhiều người làm nghề giáo, trong đó có người họ Hồ  đi dạy học khắp nơi trong cả nước.)
Trải qua trên 200 năm, do thế sự thăng trầm, gia phả thất ký, thất truyền, tuy ở địa bàn cách đất tổ không xa nhưng đã khiến chi họ ta trở nên thất lạc.
         Một vài suy ngẫm:
        Qua khảo cứu đến nay vẫn chưa xác định được họ ta thất lạc năm nào? Giai đoạn nào?Nhưng theo thọ mai gia lễ: “ngũ đại mai thần chủ” nghĩa là 5 đời thần chủ được nhắc lên hàng liệt vị tiên tổ và được lập họ tế theo ngày dỗ.Vì vậy, ba người con trai của cụ thủy tổ Hồ Phúc Sinh sau 5-6 đời khoảng trên 100 năm con cháu lập thành họ tế riêng là có thể. Khi 3 chi tế riêng đều tế từ cụ Hồ Phúc Sinh trở xuống và gia phả các chi cũng ghi chép từ cụ thủy tổ trở xuống để tiện việc tế tự rồi lưu cho con cháu sau này. Việc ba chi tách tế riêng có khả năng làm gián đoạn về với gốc họ Quỳnh Đôi là có thể. Bởi vì không có tổ chức hợp nhất, chi nào lo việc chi đó, cộng với gia phả thất ký, qua nhiều đời thất truyền, dần dần khiến chi họ thất lạc. Song cũng không loại trừ tác động những yếu tố khách quan như giặc giã, loạn lạc, nạn đói.v.v…Chim lạc tổ, người lạc tông, dấu hiệu suy lắng của chi họ.
Gia đoạn của những năm các thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
          - Ba chi tách tế riêng.
          - Không có tổ chức hợp nhất.
          - Ít người học hành đến khoa cử cao.
          - Chậm phát triển.
          - Hiện tượng có chi nhiều đời độc đinh.
          - Các chi có giai đoạn biểu hiện mất đoàn kết, rời rạc, tách tước tế Tổ riêng.
          Một vài nét trên có thể thấy sự giảm lắng của họ ta trong thời kỳ này.Qua tìm hiểu khảo cứu đến nay vẫn chưa có tài liệu nào ghi chép về họ thất lạc năm nào? Vì vậy, câu hỏi lớn đặt ra đến nay vẫn chưa tìm được câu trả lời.
        2.Thời kỳ tìm nhận Họ ở họ Hồ đại tộc Quỳnh Đôi năm Tân Dậu 1921:
Nhân vật khơi nguồn về cội và hành trình tìm họ năm Tân Dậu 1921 là cụ Hồ Thế Lộc, trưởng chi 2, đời thứ 10, đương thời là Lý trưởng làng Xuân Úc. Cũng như bao người trong họ luôn trăn trở, lòng chẳng yên lòng.Cụ nói: “Lộc tư tại tư, ngọa bất yên chẩm” nghĩa là Thế Lộc tôi ngày lại ngày nằm chẳng yên gối. Bèn kiểm gia phả 3 chi, đính thành một bản, cuối mùa đông năm Tân Dậu (1921) đích thân sang làng Quỳnh Đôi, đến Huyện Nguyên Cao Bá Quý, tới họ Hồ đại tộc Quỳnh Đôi xin tìm họ. Sau khi khảo cứu Phả tộc nguyên lưu, chi họ ta cùng đồng phái với Chi đệ nhị họ Hồ Đại tộc Quỳnh Đôi, lại tới chi Đệ nhị họ Hồ Đại tộc Quỳnh Đôi, đến cử nhân Hồ Nghị khảo cứu phổ phái, rồi tới phái chi đệ nhị gặp lão họ ông Hồ Ngụ (cố Ngụ).
“Tường nhận tông phái nguyên lưu, nhất nhất tường minh đích thực”
         Cụ bèn phụng sao các hiệu Tiên Tổ đem về hợp với gia phả 3 chi, soạn lập chỉnh biên chép thành phả tộc. (Dịch theo bút tích của cụ Hồ Thế Lộc năm Nhâm Tuất 1922 ở gia phả tiểu chi 2 họ Hồ Quỳnh Liên).
          3.Thời kỳ sau khi tìm nhận được gốc Tổ ở họ Hồ Đại Tộc Quỳnh Đôi.
Năm Nhâm tuất 1922, với điều kiện 3 chi không làm nhà thờ tế Tổ chung được là sự trăn trở của mọi người trong họ. Nhưng lực bất tòng tâm, vì thế lực của anh em con cháu còn yếu, hơn nữa lúc trưởng tộc qua đời, tự tôn còn nhỏ, đang trong sự cưu mang của thúc phụ họ là cụ Hồ Yên.
Chi 2 đã khởi công xây dựng nhà thờ tế Tổ đầu tiên. Kinh phí do anh em con cháu trong họ đóng góp công và cụ Hồ Thế Lộc cung tiến xây dựng và khánh thành đưa vào sử dụng tế tự cùng năm đó.
    4.Thời kỳ bước ngoặt lịch sử, mốc son đỏ và dấu hiệu sự phục hưng của họ.
       A/ Năm Bảo Đại thứ 11 (tức năm Bính Tý 1936)

      Gia phả của họ được biên soạn hoàn thành.Thúc phụ là cụ Hồ Yên trao lại việc hương khói thờ tự cho cháu tự tôn là cụ Hồ Tương lúc ấy đã trưởng thành.Họ đã mở một cuộc hội nghị họp ngày 12 tháng giêng năm Bính Tý 1936. Đại diện 3 chi có các thành viên gồm có:
        1. Trưởng chi 1:   Hồ Tương  (tự tôn)
        2. Trưởng chi 2:   Hồ Thế Lộc.
        3. Trưởng chi 3:   Hồ Tựa.
        4. Trưởng chi 3:   Hồ Khuơn (Khương)
        5. Lão họ          :   Hồ Tam.
        6. Nội tôn         :   Hồ Thế Tịnh.
         - Hội nghị đã thống nhất gia phả phụng soạn của cụ Hồ Thế Lộc .
         - Thống nhất hợp tế Tổ 3 chi và bắt đầu hợp tế vào đầu  xuân năm Bính Tý 1936.
          - Xây dựng vốn quỹ tế lễ và duy trì tế Tổ Hằng Năm.
Thư ký hội nghị là cụ Hồ Thế Tịnh  ghi chép biên bản.
        B/ Vậy thời kỳ này diễn ra 3 sự kiện lớn, đó là:
          1.Tự tôn đã trưởng thành, nhận việc hương khói thờ tự Tổ tiên của mình.
          2. Gia phả hoàn chỉnh được họ thống nhất (Hồ gia phổ ký Hán văn)
          3. Hợp tế Tổ 3 chi đầu tiên, xây dựng quỹ tế lễ và duy trì tế lễ hàng năm.
          5. Sự kiện ngoài sự mong muốn của dòng họ:
          Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công (1945), Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng với nạn đói chết người của cả nước, nên kéo theo sự một kiện lớn của họ ngoài sự mong muốn của mọi người.Đó là quỹ vốn tế lễ của họ bị phân

 

Hồ Phi Tiến (Theo http://music.easyvn.com/phuchungq)


 

XÁC NHẬN NGUỒN GỐC CỦA QUANG TRUNG - NGUYỄN HUỆ

02.09.2010 20:29

Viện Sử học đã nhận được thư của Quý Ban ngày 15 tháng 02 năm 2005 về quê gốc của Anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Về vấn đề này, chúng tôi xin trả lời như sau:

VIÊN KHOA HỌC VIỆT NAM

---------------

VIỆN SỬ HỌC

Số:170/CV - VSH

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tư do - Hạnh phúc

------------------

 Hà nội, ngày 15 tháng 02 năm 2005

 

 

Kính gửi: Ban liên lạc họ Hồ Việt Nam

 

Viện Sử học đã nhận được thư của Quý Ban ngày 15 tháng 02 năm 2005 về quê gốc của Anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Về vấn đề này, chúng tôi xin trả lời như sau:

Nguyễn Huệ sinh năm 1753, mất ngày 16 tháng 9 năm 1792. Ông là anh hùng dân tộc và là quân sự thiên tài. Quê hương của Nguyễn Huệ thế kỷ XVIII là vùng đất phía Tây của phủ Quy Nhơn được gọi chung là Tây Sơn.Tổ tiên của ông là họ Hồ vốn trấn Nghệ An. Khoảng thế kỷ XVII, Tổ bốn đời của ông vào Đàng Trong sinh sống và lập cư ở ấp Tây Sơn. Ấp Tây Sơn gồm ấp Nhất (thôn An Lũy, xã Phú An) và ấp Nhì (thôn Cửu An huyện An Khê, tỉnh Gia Lai) thuộc vùng Tây Sơn Thượng Đạo là thành quả khai hoang và là quê hương đầu tiên của Tổ tiên anh em Tây Sơn trên đất Đàng Trong. Đến đời cha của Hồ Phi Phúc thì dời về quê vợ là Phú Lạc, ấp Kiên Thành (xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định) thuộc vùng Tây Sơn Thượng Đạo.

Sau một thời gian trú ngụ tại quê vợ, Hồ Phi Phúc lại chuyển cư về ấp Kiên Mỹ bên bờ sông Côn (nay là Khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, Bình Định) vừa khai hoang vừa làm ruộng.

Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm và thường được gọi là chú Ba Thơm.

Trên đây là một số nét về Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ.

Xin gửi đến Quý Ban lời chào trân trọng.

 

                                                             VIỆN TRƯỞNG VIÊN SỬ HỌC

                                                                            (Đã ký tên và đóng dấu)

                                                                         PGS.TS. Trần Đức Cường

 

 

Hồ Thanh Tâm (Theo Văn phòng BLLHHVN)

 

Đang cập nhật nội dung ...